Động cơ học tập là gì? Các công bố khoa học về Động cơ học tập
Động cơ học tập (hay còn gọi là động lực học tập) là nguồn năng lượng, ý chí, hoặc nguyên nhân đặc biệt mà thúc đẩy một người hoặc sinh vật để học tập, nghiên c...
Động cơ học tập (hay còn gọi là động lực học tập) là nguồn năng lượng, ý chí, hoặc nguyên nhân đặc biệt mà thúc đẩy một người hoặc sinh vật để học tập, nghiên cứu, và phát triển kiến thức, kỹ năng. Động cơ học tập có thể xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau như mong muốn thành công, sự ham muốn khám phá, hứng thú với một chủ đề nào đó, áp lực đến từ môi trường xung quanh, hoặc đơn giản là niềm vui và sự hài lòng mà học tập mang lại. Động cơ học tập chủ yếu là yếu tố quyết định để một người có thể đạt được thành công trong quá trình học tập.
Động cơ học tập có thể được chia thành hai loại chính: động cơ nội tại và động cơ bên ngoài.
1. Động cơ nội tại: Là sự hiện diện của niềm đam mê và sự hứng thú tự nhiên với việc học tập. Động cơ nội tại thường xuất phát từ khả năng tự thúc đẩy và kiểm soát bản thân. Người có động cơ nội tại thường cảm thấy hào hứng và thỏa mãn khi học tập, họ tìm kiếm kiến thức mới, đặt mục tiêu và dành thời gian để nghiên cứu. Động cơ nội tại thường có một tác động tích cực lên cảm xúc và trạng thái tâm lý.
2. Động cơ bên ngoài: Động cơ bên ngoài là sự thúc đẩy đến từ các yếu tố hoặc khả năng bên ngoài, như sự kiểm soát từ bên ngoài, sự khuyến khích từ gia đình, người thân, bạn bè, giáo viên hoặc phần thưởng và kiểm soát xã hội. Động cơ bên ngoài có thể bao gồm áp lực từ gia đình, xã hội hoặc mong muốn đạt được thành công và danh tiếng. Động cơ bên ngoài cũng có thể đến từ môi trường học tập, như sự kỳ vọng của giáo viên hoặc nhóm bạn đồng mức.
Động cơ học tập là một yếu tố quan trọng để phát triển kiến thức, kỹ năng và thành công trong quá trình học tập. Có được những động cơ học tập mạnh mẽ và cân đối giúp ta tạo ra một môi trường tích cực và cải thiện hiệu suất học tập.
Để chứng minh sự chi tiết hơn về động cơ học tập, dưới đây là một số yếu tố cụ thể có thể ảnh hưởng đến động cơ học tập:
1. Sự quan tâm: Động cơ học tập thường bắt nguồn từ sự quan tâm và sự tò mò về một chủ đề hoặc lĩnh vực cụ thể. Khi một người có sự quan tâm về một đề tài, họ sẽ có xu hướng muốn tìm hiểu thêm thông tin và nghiên cứu sâu hơn về nó.
2. Mục tiêu và sự định hướng: Đặt ra mục tiêu học tập rõ ràng và có định hướng giúp tạo ra động cơ mạnh mẽ. Khi có mục tiêu cụ thể, người học sẽ có xu hướng tự hướng dẫn và cố gắng để đạt được mục tiêu đó.
3. Giá trị cá nhân: Động cơ học tập cũng có thể phát sinh từ sự nhận ra giá trị cá nhân của việc học tập. Khi người học hiểu được tầm quan trọng và lợi ích mà kiến thức mang lại, họ sẽ có động lực cao hơn để nỗ lực và đạt được kết quả tốt hơn.
4. Thách thức: Đôi khi, sự đối mặt với thách thức và khó khăn trong quá trình học tập có thể tạo ra động cơ học tập mạnh. Những người muốn vượt qua những rào cản và vượt qua các thử thách thường có động cơ học tập cao.
5. Sự khuyến khích và phản hồi: Sự khuyến khích và phản hồi tích cực từ giáo viên, gia đình, bạn bè và cộng đồng có thể làm tăng động cơ học tập. Sự động viên, khen ngợi và nhận ra thành tựu của người học có thể là một động lực mạnh để tiếp tục nỗ lực và phát triển.
6. Tạo điều kiện học tập: Một môi trường học tập ưu đãi và đáng tin cậy có thể tạo ra động cơ học tập. Sự hỗ trợ từ giáo viên, tài liệu học tập phù hợp, môi trường học tập thoải mái và thân thiện là những yếu tố quan trọng để tạo ra động cơ học tập tốt.
Tổng hợp lại, động cơ học tập là sự kết hợp của nhiều yếu tố khác nhau và có thể khác nhau đối với từng người. Điều quan trọng là tìm hiểu và tạo ra các yếu tố này để tạo ra một động cơ học tập mạnh mẽ và bền vững.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "động cơ học tập":
Nhiều phương pháp giảng dạy mặc nhiên cho rằng kiến thức khái niệm có thể được trừu xuất từ các tình huống mà nó được học và sử dụng. Bài viết này lập luận rằng giả định này không thể tránh khỏi việc hạn chế hiệu quả của các phương pháp như vậy. Dựa trên nghiên cứu mới nhất về nhận thức trong hoạt động hàng ngày, các tác giả lập luận rằng kiến thức là định vị, là một phần sản phẩm của hoạt động, bối cảnh và văn hóa nơi nó được phát triển và sử dụng. Họ thảo luận về việc quan điểm này ảnh hưởng đến sự hiểu biết của chúng ta về học tập như thế nào, và họ nhận thấy rằng trường học truyền thống quá thường xuyên bỏ qua tầm ảnh hưởng của văn hóa trường học lên những gì được học ở trường. Như một giải pháp thay thế cho các thực tiễn truyền thống, họ đề xuất học nghề nhận thức (Collins, Brown, & Newman, đang chuẩn bị xuất bản), mở rộng đặc trưng bản chất định vị của kiến thức. Họ xem xét hai ví dụ về giảng dạy toán học thể hiện những đặc điểm chính của cách tiếp cận này đối với giảng dạy.
Các nghiên cứu dân tộc học gần đây về thực tiễn nơi làm việc chỉ ra rằng cách mọi người thực sự làm việc thường khác biệt cơ bản so với cách các tổ chức mô tả công việc đó trong các hướng dẫn, chương trình đào tạo, sơ đồ tổ chức và mô tả công việc. Tuy nhiên, các tổ chức có xu hướng dựa vào những mô tả này trong nỗ lực hiểu và cải thiện thực tiễn công việc. Chúng tôi nghiên cứu một trong những nghiên cứu như vậy. Sau đó, chúng tôi liên hệ kết luận của nó với các nghiên cứu tương thích về học tập và đổi mới để lập luận rằng các mô tả thông thường về công việc không chỉ che giấu cách mọi người làm việc, mà còn che giấu sự học và đổi mới đáng kể được tạo ra trong các cộng đồng thực hành phi chính thức nơi họ làm việc. Bằng cách đánh giá lại công việc, học tập và đổi mới trong bối cảnh các cộng đồng và thực hành thực tế, chúng tôi gợi ý rằng các kết nối giữa ba yếu tố này trở nên rõ ràng. Với một cái nhìn thống nhất về làm việc, học tập và đổi mới, cần có khả năng tái định nghĩa và tái thiết kế các tổ chức để cải thiện cả ba yếu tố này.
Mục đích của nghiên cứu hiện tại là xem xét sự tương đồng trong các đặc điểm nhân khẩu, hành vi, học thuật và xã hội như những mô tả và yếu tố dự đoán cho tình bạn của trẻ em. Các đặc điểm của tất cả các cặp học sinh độc nhất có thể (N = 4725) đã được sử dụng để dự đoán những lựa chọn tình bạn được đáp lại ở trường, ở nhà và bạn thân nhất giữa 554 học sinh lớp ba (M = 9.38 tuổi) và lớp tư (M = 10.47 tuổi). Các báo cáo từ bạn bè về hành vi xung đột và rút lui cùng với tình trạng xã hội, báo cáo của giáo viên về nghèo đói, và các báo cáo lưu trữ về giới tính, chủng tộc và thành tích học vấn đã được thu thập. Phát hiện chính là khi sự tương đồng gia tăng, xác suất trở thành bạn bè cũng tăng theo. Cụ thể, các mẫu về giới tính, chủng tộc, nghèo đói, hành vi xung đột, hành vi rút lui, thành tích và tình trạng xã hội giữa các thành viên đôi bạn có thể mô tả và dự đoán tình bạn của trẻ em.
Học tập ngầm liên quan đến vận động là quá trình học một chuỗi chuyển động mà không có nhận thức ý thức. Mặc dù các triệu chứng vận động thường được báo cáo ở những cá nhân mắc rối loạn phổ tự kỷ (
Vào tháng 3 năm 2020, các trường đại học ở Trung Quốc đã chuyển sang giáo dục trực tuyến để đối phó với đại dịch COVID-19 và tăng cường sự chú ý vào hợp tác trong học tập trực tuyến. Tuy nhiên, rất ít thông tin được biết đến về tác động của việc tham gia học tập cộng tác trực tuyến (OCL) đến quan điểm của sinh viên giáo viên về quá trình này cũng như về việc giảng dạy và học tập của chính họ. Nghiên cứu định tính này đã khảo sát quan điểm của 18 sinh viên giáo viên về trải nghiệm OCL và cách nó ảnh hưởng đến họ như là những người học và giáo viên tương lai. Các người tham gia cho biết OCL đã giúp họ phát triển những quan điểm đa dạng về việc học và có tác động tích cực đến quan điểm của họ về việc sử dụng OCL trong tương lai. Họ coi trải nghiệm cá nhân về OCL của mình như là một khía cạnh quan trọng trong sự phát triển của họ với tư cách là giáo viên. Những kết quả này nhấn mạnh cách thức học tập trực tuyến có thể hình thành quan điểm và tính chuyên nghiệp của sinh viên giáo viên. Các chương trình đào tạo giáo viên trong tương lai có thể cung cấp OCL như một trải nghiệm giảng dạy ở giai đoạn đầu nhằm giúp chuyển đổi sự tự nhận thức của sinh viên giáo viên từ một sinh viên thành một giáo viên. Các phát hiện của nghiên cứu này cũng cho thấy rằng việc đào tạo giáo viên cộng tác trực tuyến mang lại cho sinh viên giáo viên cơ hội hợp tác, thảo luận và phản ánh về sự phát triển nghề nghiệp của họ với tư cách là giáo viên. Điều này khuyến khích các nhà giáo dục đào tạo giáo viên xem xét lại cách thức kết hợp các hình thức thực hành mới và các lý thuyết giảng dạy một cách hiệu quả hơn trong đào tạo giáo viên sau COVID.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10